Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Ợ nóng: Coi chừng ung thư thực quản

Đó là trường hợp bệnh nhân của bác sĩ tiêu hóa Patrick Hyatt từ Trung tâm Nghiên cứu các bệnh do trào ngược (Mỹ). Trao đổi với Men`s Health, bác sĩ nhận định trào ngược axit có thể dẫn đến ung thư, nếu chữa trị cẩn thận sẽ hạn chế được nguy cơ mắc bệnh.

Ợ nóng có thể là dấu hiệu của ung thư thực quản (Ảnh minh họa: Internet)

Theo bác sĩ Hyatt, axit dạ dày tràn vào thực quản gây ợ nóng và làm tổn thương niêm mạc thực quản. Nếu điều này diễn ra quá trường xuyên, tế bào lót thực quản sẽ bị thay thế bằng tế bào kháng axit hay còn gọi là hiện tượng Barrett thực quản, khiến nguy cơ ung thư thực quản tăng vọt. Ở Mỹ, tỷ lệ ung thư thực quản ở nam giới cao hơn 3-4 lần so với phụ nữ.

Ung thư thực quản từ ợ nóng không phổ biến, nhưng bác sĩ Hyatt khuyên bạn nên đi khám ngay nếu có các biểu hiện sau:

- Bị ợ nóng hơn một lần trên tuần.

- Bạn từ 50 tuổi trở lên và bị ợ nóng mỗi tuần một lần hoặc nhiều hơn.

- Thuốc ợ nóng không làm giảm triệu chứng.

- Bạn bị khó nuốt.

- Bạn bị nôn khi không ốm hoặc nôn ra máu.

Nếu thấy cần thiết, bác sĩ sẽ khuyên bạn đi xét nghiệm Barrett thực quản. Trong trường hợp mắc bệnh, bạn sẽ được theo dõi hoặc can thiệp để giúp thực quản sớm trở lại bình thường.

Trường hợp bạn không bị Barrett thực quản mà vẫn ợ nóng, hãy thử làm theo những điều dưới đây.

- Thay đổi thói quen: Bỏ rượu nếu đồ uống này khiến bạn ợ nóng. Không nằm ngay sau khi ăn.

- Giảm cân: Thừa cân làm tăng nguy cơ ợ nóng vì mỡ bụng đè nén dạ dày, khiến axit dễ tràn vào thực quản.

- Dùng thuốc: Các loại thuốc có tác dụng ngăn sự sản xuất axit dạ dày, hạn chế ợ nóng. Đừng quên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi sử dụng.

Mua đồ cho trẻ, mẹ phải đặc biệt tránh 6 hóa chất cực độc này

Rất nhiều hóa chất độc hại ẩn mình trong các sản phẩm sữa tắm, dầu gội, kem chống hăm, kem chống nắng, bỉm tã,... mà hàng ngày mẹ vẫn chọn mua và sử dụng cho con. Để bé yêu không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi chúng, mẹ cần chú ý tránh xa các sản phẩm có ghi những chất sau trên bao bì ở mục `Ingredients` (Thành phần):

Fragrance hoặc Parfum (Hương liệu)

Một trong những `chiêu trò` của các hãng sản xuất khi muốn che giấu những hóa chất bị cấm sử dụng chính là `đậy` chúng dưới cái tên rất chung chung: hương liệu (fragrance hoặc parfum).

Mặc dù hương liệu thường dùng để mang đến cho các lại sữa tắm, dầu gội, tã bỉm,... mùi thơm đặc trưng, đánh bật những mùi hôi khó chịu nhưng hầu hết các chất này đều là hóa chất tổng hợp độc hại, có loại có khả năng gây dị ứng, ung thư hoặc làm tổn hại tới hệ thần kinh trung ương.

Hóa chất `Parfum` ẩn mình trong các sản phẩm sữa tắm, dầu gội, kem chống hăm, kem chống nắng, bỉm tã,... (Ảnh minh họa)

Mineral Oil (Dầu khoáng)

Chất này còn có thể xuất hiện trên nhãn mác sản phẩm với các tên gọi: petrolatum, paraffinum, parrafinum liquididum.

Đây là một chất làm từ dầu mỏ, được sử dụng rất phổ biến như chất dưỡng ẩm, làm ẩm, giúp da chống mất nước trong các sản phẩm cho trẻ em.

Tuy nhiên, chính vì tác dụng trên mà Mineral Oil (Dầu khoáng) được các nhà khoa học cảnh báo là có tác động tạo thành một lớp mỏng không thấm nước trên da, làm tắc lỗ chân lông, khiến cho da giảm khả năng đào thải chất độc. Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng cảnh báo về nguy cơ gây ung thư từ hóa chất mang tên Mineral Oil này.

Paraben

(Còn có thể xuất hiện trên nhãn mác sản phẩm với các tên gọi: Ethylparaben, butylparaben, methylparaben, propylparaben, hoặc bất cứ hóa chất nào có đuôi ở phần tên là `paraben`).

Paraben ngăn ngừa sự sinh sôi nảy nở của vi khuẩn vi trùng nên hay được sử dụng trong các sản phẩm cho trẻ em như một chất bảo quản. Hóa chất này có thể gây kích ứng cho làn da non nớt của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, ảnh hưởng tiêu cực lớn nhất của paraben là khả năng gây rối loạn hoócc-môn trong cơ thể. Chất này cũng liên quan tới việc gia tăng nguy cư ung thư vú và sản sinh độc tố. Vì hệ thống hoóc-môn của trẻ nhỏ chưa hoàn thiện đầy đủ, paraben có thể gây ra những thương tổn không thể thay thế cho sự phát triển của tuyến nội tiết.

Bột talc

Bột talc là thành phần phổ biến nhất được tìm thấy trong các loại phấn rôm dành cho trẻ nhỏ, tạo cảm giác khô thoáng. Tuy nhiên, chất này được cảnh báo là cực kì độc hại, trẻ nhỏ hít vào sẽ bị kích thích phổi, thậm chí còn tăng khả năng mắc ung thư. Viện Nhi khoa Mỹ khuyến cáo không nên sử dụng phấn rôm cho trẻ. Tốt nhất, nên sử dụng các nguyên liệu từ tự nhiên như dầu dừa hoặc baking soda khi trẻ bị hăm tã.

Bột talc hay paraben đều là những hóa chất độc hại xuất hiện rộng rãi trong các sản phẩm cho trẻ em (Ảnh minh họa)

Ceteareth

Mặc dù được sử dụng rộng rãi trong các công thức sữa tắm và kem chống nắng cho trẻ em, Ceteareth bị nghi ngờ là có khả năng gây hại cho sức khỏe con người, bao gồm ngụy cơ làm tổn thương nội tạng, kích ứng da và ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thần kinh.

Polyethylene glycol

Nếu chứa Polyethylene glycol, trên nhãn mác sản phẩm thường sẽ có dòng chữ PEG – kèm theo một con số. Con số càng nhỏ thì khả năng hợp chất này thẩm thấu vào da càng lớn.

PEG (Polyethylene glycol) là một hợp chất có tác dụng làm ẩm nhưng có thể gây dị ứng cho làn da em bé và tạo điều kiện thuận lợi cho những hóa chất độc hại xâm nhập vào cơ thể qua lớp biểu bì.

(Theo Khampha)

Bệnh nặng chỉ vì cái… nhọt

Tác hại khó lường của nhọt

Từ những nhọt thông thường, điều trị không đúng dẫn đến vùng da nhiễm khuẩn. Do đó, từ chỗ bị nhiễm trùng tại chỗ đã chuyển sang lan tràn toàn thân. Ở trẻ nhỏ ban đầu chỉ có thể bị một cái mụn nhỏ hay chốc, nhưng do không biết cách chăm sóc hoặc quá chủ quan đã tạo nên nhiễm trùng toàn thân dẫn đến bị các bệnh như viêm cầu thận, viêm thận, nhiễm trùng huyết.

nhot-co-the-gay-tac-hai-khon-luong

Đối với người lớn, xuất phát có thể chỉ là một cái nhọt quanh vùng miệng hay còn gọi là đinh râu, chăm sóc không đúng cách có thể dẫn đến viêm xoang tĩnh mạch hang gây nhiễm trùng huyết, gây áp-xe não. Khi đã xảy ra các biến chứng này có thể dẫn đến tử vong nếu không được chữa trị kịp thời. Ngoài ra, nhọt ở một số vùng da dày (như ở lưng, gáy) có thể khó thoát ra ngoài và đôi khi gây vỡ mủ đến một số vị trí lân cận trong cơ thể. Chính vì vậy, với mụn nhọt ở một vài vị trí đặc biệt thì phải chú ý như đinh râu, hậu bối (bệnh than ngoài da), vì chúng dễ gây ra biến chứng nguy hiểm.

Điều trị nhọt

Cần làm gì?

Đa số nhọt tự khỏi, mủ sẽ tự bị đẩy ra ngoài và vi khuẩn bị hệ miễn dịch của cơ thể tiêu diệt. Không cố bóp nặn nhọt vì có thể gây thoát mủ ra mô xung quanh làm cho nhiễm trùng nặng thêm.

Để điều trị các mụn nhọt thông thường, chỉ cần bôi thuốc sát trùng hoặc rửa tay, chân với nước muối loãng. Khi nhọt đã “chín” thì chích mủ, nhưng phải đảm bảo vô trùng, tuyệt đối không được nặn nhọt non. Khi mủ khó thoát ra ta cần chích rạch để đưa mủ ra ngoài. Tuy nhiên điều này chỉ được phép làm khi chắc chắn đã có ổ mủ (giai đoạn đầu của nhọt vẫn chưa hình thành mủ). Lưu ý là không được tự làm, bạn nên nhờ trợ giúp của nhân viên y tế.

Nhọt thường gây đau, để giảm đau bạn có thể đắp khăn ướt hoặc dùng paracetamol liều lượng theo chỉ định của bác sĩ.

Mủ có chứa vi khuẩn cho nên có thể gây bệnh cho người khác. Do vậy cần để những bông gạc dính mủ trong túi nilon rồi vứt vào thùng rác.

Lời khuyên của thầy thuốc

Trong trường hợp nhọt to có sốt cao hay bị đinh râu, hậu bối có nhiễm khuẩn (da đỏ tấy lan rộng) thì phải sử dụng kháng sinh liều cao và được điều trị tại bệnh viện. Khi cơ thể bị nhọt dễ tái phát thì nên đi khám, vì có thể bị bệnh tiềm ẩn nào đó làm cho cơ thể dễ bị nhiễm trùng như đái tháo đường hoặc bệnh lý của hệ miễn dịch.

Để hạn chế mắc bệnh và tái phát thì việc giữ vệ sinh là điều rất quan trọng. Cần tắm rửa thường xuyên bằng xà phòng diệt khuẩn. Chú ý lau khô người sau khi tắm. Nên chọn loại quần áo có chất liệu thoáng (chất liệu nilon thường làm cho da ẩm do không thoát được mồ hôi).

ThS. BS. Quang Hưng

Dấu hiệu bạn bị nhiễm nấm Candida ở phổiDấu hiệu bạn bị nhiễm nấm Candida ở phổiVai trò của răng sữaVai trò của răng sữaĐiều trị viêm gan B mạn tínhĐiều trị viêm gan b mạn tính

Để thoái hóa khớp không còn là nỗi lo

Thoái hóa khớp (THK) là một trong những bệnh khớp mạn tính rất thường gặp ở người cao tuổi (NCT) với hiện tượng hư hỏng phần sụn đệm giữa hai đầu xương, kèm theo là phản ứng viêm và giảm thiểu lượng dịch nhày giúp bôi trơn trong khớp. Sụn khớp bị lão hóa trở nên sần sùi, mất độ trơn nhẵn, giảm đàn hồi, khô và nứt nẻ, mòn, khuyết... Bệnh làm giảm chức năng vận động, gây đau đớn, khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Những ai hay bị THK?

THK xảy ra do sự mất cân bằng giữa hai quá trình tái tạo sụn và thoái hóa sụn. Tuổi càng cao thì quá trình tái tạo sụn càng giảm, đồng thời tốc độ thoái hóa sụn tăng lên. Sự mất cân bằng giữa hai quá trình này dẫn tới hiện tượng các tế bào sụn già không được thay thế, khả năng tổng hợp các chất tạo nên sợi collagen và mucopolysaccharid giảm rối loạn. Từ đó, chất lượng sụn giảm dần, tính chất đàn hồi và khả năng chịu lực giảm. THK cũng thường gặp ở người bị các dị dạng bẩm sinh, biến dạng thứ phát sau chấn thương, viêm, u...; người thừa cân béo phì; những người nghề nghiệp phải khuân vác, xách vật nặng thường xuyên. Ngoài ra, những người có cơ địa già sớm, mãn kinh, đái tháo đường, loãng xương, bệnh gut cũng là nguyên nhân gây THK.

Người cao tuổi nên tăng cường vận động để phòng thoái hóa khớp.

Khi bị THK, người bệnh có những biểu hiện gì?

Đau là biểu hiện đầu tiên và thường gặp nhất. Người bệnh đau ở vị trí khớp bị thoái hóa, đau âm ỉ, ít khi đau lan (trừ trường hợp thoái hóa cột sống gây chèn ép rễ và dây thần kinh); đau tăng khi vận động và giảm khi nghỉ ngơi. Một số ít trường hợp có sưng, nóng, đỏ tại vị trí khớp bị thoái hóa. Người bệnh bị hạn chế vận động chủ động và thụ động tại các khớp bị thoái hóa, mức độ hạn chế không nhiều và có thể chỉ hạn chế ở một số động tác. Các khớp bị biến dạng nhưng không nhiều, nguyên nhân do mọc các gai xương, lệch trục khớp hoặc thoát vị màng hoạt dịch. Ngoài ra, người bệnh có thể bị teo cơ, có tiếng lạo xạo khi vận động, tràn dịch khớp (thường là khớp gối). Chụp Xquang không phải là yếu tố quyết định để chẩn đoán thoái hóa khớp vì có thể có những trường hợp biểu hiện trên phim Xquang nhưng không có triệu chứng lâm sàng hoặc phải một thời gian rất lâu sau đó mới biểu hiện các triệu chứng lâm sàng. Biểu hiện thường là hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn, chồi xương, gai xương. Ngoài ra, một số phương pháp chụp đặc biệt có thể phát hiện sớm các tổn thương của sụn khớp, đĩa đệm như: chụp cắt lớp, chụp cắt lớp vi tính (CT Scanner), chụp Xquang có bơm thuốc cản quang.

Cần phân biệt thoái hóa khớp với viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, lao cột sống.

Điều trị và dự phòng THK như thế nào?

Nguyên tắc cơ bản trong phòng và điều trị thoái hóa khớp là làm chậm quá trình hủy hoại khớp, đặc biệt là ngăn sự thoái hóa của sụn khớp; giảm đau và duy trì khả năng vận động, hạn chế đến mức thấp nhất sự tàn phế cho người bệnh, trong đó, điều trị nội khoa là chủ yếu bằng các thuốc giảm đau chống viêm, thuốc kích thích tế bào sụn, tăng chất nhầy của khớp. Ngoài dùng thuốc, vật lý trị liệu (siêu âm, chiếu tia hồng ngoại, chườm nóng, liệu pháp suối khoáng, đắp bùn, luyện tập chỉnh sửa tư thế...) và châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt đem lại hiệu quả tốt với người bệnh. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuốc giảm đau chống viêm kéo dài hoặc không đúng cách sẽ gây ra nhiều tác dụng không mong muốn đối với người bệnh, đặc biệt hay gặp là gây viêm loét dạ dày - tá tràng thứ phát nên người bệnh không được tự ý dùng thuốc mà phải có sự thăm khám và chỉ định dùng thuốc của bác sĩ.

Điều trị ngoại khoa: chỉ tiến hành khi điều trị nội khoa không có kết quả, tổn thương khớp quá nặng, có các biến chứng như liệt, teo cơ, rối loạn đại tiểu tiện, người bệnh trên 60 tuổi.

Lời khuyên của thầy thuốc: Để phòng và điều trị bệnh thoái hóa khớp có hiệu quả, cần hướng dẫn người cao tuổi thực hiện các chế độ sinh hoạt, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. Tránh cho khớp bị quá tải bởi trọng lượng và vận động: duy trì cân nặng hợp lý, tránh các tư thế: đứng lâu; ngồi vẹo lệch, không cân đối. Tập luyện thường xuyên và vừa sức giúp cơ bắp khỏe mạnh, không nên tập vận động quá mạnh hoặc quá lâu. Với người cao tuổi, tốt nhất nên tập thể dục nhẹ nhàng, dưỡng sinh, bơi lội, đạp xe, đi bộ nhẹ nhàng trong khoảng thời gian 20 - 30 phút/ngày. Thực phẩm ăn uống nên đa dạng, giàu protein, vitamin, khoáng chất, đặc biệt là canxi (trứng, sữa, tôm, cua, lươn và các loại nhuyễn thể, các loại quả chín và rau có màu xanh đậm hoặc màu vàng...). Ngoài ra, có thể dùng các loại thuốc có chứa thành phần glucosamin bởi vì glucosamin tham gia quá trình chuyển hóa tổng hợp nên thành phần của sụn khớp.

ThS.BS. Nguyễn Hải Yến

(Trung tâm Y tế quận Cầu Giấy)

Thoái hóa khớp có nguy hiểm?Thoái hóa khớp có nguy hiểm?Ăn gì để phòng chữa thoái hóa khớp?Ăn gì để phòng chữa thoái hóa khớp?Thoái hóa khớp ngón tayThoái hóa khớp ngón tay

Viêm mũi dị ứng

Viêm mũi dị ứng (VMDƯ) là nguyên nhân thường gặp (40%) của viêm mũi nói chung là tình trạng viêm niêm mạc mũi-xoang biểu hiện bằng các triệu chứng hắt hơi, ngạt, ngứa và chảy mũi, qua trung gian kháng thể và xảy ra do tiếp xúc với dị nguyên trong không khí. Bệnh có xu hướng ngày càng gia tăng

VMDƯ là một tình trạng viêm mạn tính phổ biến nhất, đặc biệt ở những người dưới 18 tuổi. Ở Hoa Kỳ, tỉ lệ VMDƯ quanh năm ở nhóm học sinh trung học dưới 23 tuổi là 14,0%. Ở các nước châu Á, tỉ lệ mắc VMDƯ quanh năm ở Nhật là 18,7%, ở Hàn Quốc là 3,9%. Ở Việt Nam theo thống kê ước tính khoảng 12% dân số Việt Nam bị VMDƯ.

VMDƯ không phải là bệnh nguy hiểm nhưng nó làm cho chất lượng cuộc sống của người bệnh bị ảnh hưởng nặng nề: nhức đầu, mất ngủ làm giảm tập trung, giảm năng suất lao động. Bệnh nhân thường xuyên hắt hơi, chảy nước mũi làm cho giao tiếp xã hội bị hạn chế khiến bệnh nhân bị mặc cảm, thay đổi tính tình, dễ cáu gắt và tự cô lập. VMDƯ còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý về tai mũi họng và đường hô hấp khác như: viêm tai giữa, viêm xoang, polyp mũi, hen phế quản... và do đó làm tăng chi phí điều trị, cả trực tiếp và gián tiếp. Theo thống kê tại Hoa Kỳ năm 1999, chỉ riêng tiền bán thuốc kháng histamin là 3 tỉ USD, thuốc steroid xịt mũi là 1 tỉ USD. Ở Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu nào được thực hiện về đề tài này, nhưng dự tính các chi phí này cũng cao đáng kể .

Ảnh minh họa (nguồn Internet).

VMDƯ có 2 loại:

VMDƯ theo mùa và VMDƯ quanh năm. Nguyên nhân chính gây ra VMDƯ theo mùa là bụi phấn hoa và bào tử, do đó, bệnh phụ thuộc vào mùa và nơi ở. Đa số bệnh nhân VMDƯ quanh năm là do dị ứng với bọ bụi nhà . VMDƯ quanh năm có biểu hiện từ lúc còn nhỏ và bệnh có thể xuất hiện trong cả năm.

Triệu chứng

Các triệu chứng chính của VMDƯ gồm: ngứa mũi, hắt hơi liên tục thành tràng dài, chảy nước mũi loãng trong, nghẹt mũi, cay mắt, đỏ mắt hay chảy nước mắt,… Đa số các bệnh nhân đều có các triệu chứng trở nên nặng nề nhất vào buổi sáng.

VMDƯ được chẩn đoán dựa trên tiền sử của bản thân và gia đình về dị ứng và các triệu chứng lâm sàng. Các xét nghiệm dị ứng học được thực hiện để chẩn đoán xác định VMDƯ và tìm những dị ứng nguyên liên quan. Test tìm dị ứng nguyên có thể được thực hiện in vitro hoặc dưới da để xác định dị ứng nguyên đặc hiệu với kháng thể (Kích thước nốt mẩn đỏ xuất hiện sau khoảng thời gian từ 15 tới 20 phút sau khi thực hiện mũi lẩy trong da có chứa dị ứng nguyên được so sánh với mũi lẩy trong da chứa dung dịch muối sinh lý). Theo các nghiên cứu cho thấy mạt có trong bụi nhà là nguyên nhân chính gây viêm mũi xoang dị ứng, chiếm tỷ lệ từ 75-80%. Ngoài ra có các loại dị nguyên khác, như dị nguyên lông vũ, nấm mốc, phấn hoa...

Vệ sinh mũi đúng cách giúp hạn chế bị viêm mũi dị ứng.

Kiếm soát viêm mũi dị ứng

Các phương pháp điều trị không dùng thuốc

Thường xuyên rửa mũi bằng nước muối biển tinh chế.

Vệ sinh định kỳ chăn, ga, gối, đệm, vải bọc ghế, bọc đệm hạn chế sự tồn tại và sinh trưởng của một số ký sinh trùng. Nhà ở cần thoáng, mát, sạch sẽ, tránh ẩm ướt nếu làm được như vậy sẽ hạn chế nấm mốc phát triển, tránh mạt bụi nhà.

Các phương pháp điều trị dùng thuốc

Người bệnh cần tránh các yếu tố nguy cơ: tiếp xúc với dị nguyên như bụi nhà, khói, lông chó mèo... Cần vệ sinh định kỳ chăn, ga, gối, đệm, vải bọc ghế, bọc đệm hạn chế sự tồn tại và sinh trưởng của một số ký sinh trùng. Nhà ở cần thoáng, mát, sạch sẽ, tránh ẩm ướt nếu làm được như vậy sẽ hạn chế nấm mốc phát triển.

+ Thuốc kháng histamin đường uống: Có nhiều thế hệ thuốc kháng histamin, việc sử dụng các thuốc giúp giảm các triệu chứng của VMDƯ, tuy nhiên những thuốc này cũng có những tác dụng không mong muốn như: khô miệng, buồn ngủ,... và chỉ dùng được trong thời gian ngắn.

+ Thuốc xịt mũi chứa corticosteroid: Ngày nay với sự ra đời của các thuốc xịt mũi thế hệ mới (Rhinocort Aqua, Avamis, Nasonex,...) có nhiều ưu điểm đó là kiểm soát tốt các triệu chứng tại mũi: hắt hơi, chảy mũi, ngạt mũi và ngứa mũi. Đồng thời giảm các triệu chứng ngoài mũi như: ngứa mắt, đỏ mắt,... Thuốc có sinh khả dụng thấp, thời gian phân hủy kéo dài nên rất ít ảnh hưởng đến toàn thân, có thể dùng kéo dài và chỉ cần dùng 1 lần trong ngày giúp bệnh nhân dễ dàng tuân thủ điều trị. Các bình xịt cũng được thiết kế cải tiến giúp bệnh nhân dễ dàng sử dụng, ít gây khó chịu cho bệnh nhân.

+ Liệu pháp miễn dịch: Hiện nay tại khoa Dị ứng - miễn dịch lâm sàng Bệnh viện Tai mũi họng Trung ương đang áp dụng điều trị VMDƯ bằng phương pháp giảm mẫn cảm đặc hiệu. Đây được coi là “vaccin” trong điều trị bệnh VMDƯ do kích thích cơ thể tạo ra và duy trì kháng thể chống lại yếu tố dị ứng. Tuy nhiên để thuốc phát huy hiệu quả, người bệnh cần kiên trì điều trị theo chỉ định của bác sĩ.

Ngoài ra, để phòng viêm mũi dị ứng, người bệnh cần tránh các yếu tố nguy cơ: tiếp xúc với dị nguyên như bụi nhà, khói, lông chó mèo... Cần vệ sinh định kỳ chăn, ga, gối, đệm, vải bọc ghế, bọc đệm, hạn chế sự tồn tại và sinh trưởng của một số ký sinh trùng. Nhà ở cần thoáng, mát, sạch sẽ, tránh ẩm ướt nếu làm được như vậy sẽ hạn chế nấm mốc phát triển. Cần vệ sinh răng miệng hàng ngày, nhất là đánh răng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. Hạn chế đến mức tối đa hút thuốc lá, thuốc lào. Cẩn thận khi thay đổi thời tiết, chú ý giữ vệ sinh mũi, thường xuyên dùng nước ấm hoặc nước muối sinh lý để rửa mũi, không dùng tay ngoáy mũi để tránh tổn thương niêm mạc mũi...

Khi nghi ngờ bị bệnh viêm mũi dị ứng nên đi khám bác sĩ, tốt nhất là khám bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng để được tư vấn và điều trị đúng cách.

TS. Võ Thanh Quang - ThS. Hà Minh Lợi

Những điều kiêng kỵ khi ăn thịt bò

1. Không ăn cùng rượu trắng

Rượu trắng có tính nóng khi ăn cùng thịt bò sẽ rất dễ khiến cho răng lợi dễ bị nhiễm trùng. Nếu sử dụng thường xuyên và kéo dài dễ bị táo bón, viêm miệng, ù tai, đỏ mắt…

2. Không ăn thịt bò nướng

nhung-dieu-kieng-ky-khi-an-thit-bo

Mọi người thường thích ăn những miếng thịt bò nướng cháy cạnh. Tuy nhiên, thịt bò được các chuyên gia khuyến cáo không nên ăn nướng, hun khói để tránh sản sinh ra chất gây ung thư như: nitrosamine và benzopyrene có hại cho sức khỏe.

3. Không ăn cùng thịt lợn

Hai loại thịt này kết hợp với nhau sẽ tạo ra xung khắc, vì thịt bò có tính ôn còn thịt lợn có tính hàn. Nếu sử dụng cùng một lúc cơ thể không thể hấp thụ được hết chất dinh dưỡng.

4. Không ăn quá nhiều

Trong thịt bò có nhiều cholesterol, nhiều mỡ bởi vậy mỗi ngày chỉ nên dùng 80 g là đủ. Nếu thường xuyên ăn thịt bò sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư tiền liệt tuyến và ung thư đại tràng. Người già và trẻ nhỏ hệ tiêu hóa kém cũng không nên ăn nhiều thịt bò.

5. Không ăn vào buổi tối

nhung-dieu-kieng-ky-khi-an-thit-bo-1

Thịt bò rất giàu sắt cho nên khi ăn vào buổi tối gan sẽ phải hoạt động nhiều hơn. Điều này sẽ gây nhiễu đồng hồ sinh học của gan dẫn đến hậu quả lượng đường trong máu tăng bất thường.

6. Không ăn cùng hải sản

Trong thịt bò có chứa photpho, còn hải sản lại giàu magie và canxi, những chất này phản ứng với nhau sẽ tạo thành kết tủa dạng muối. Và kết tủa này sẽ làm giảm quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong cơ thể.

7. Không ăn thịt bò khi bị viêm thận

Thịt bò là thực phẩm giàu protein, người bị viêm thận không nên ăn nhiều để giảm bớt gánh nặng cho thận.

8. Không kết hợp thịt bò với các thực phẩm sau

nhung-dieu-kieng-ky-khi-an-thit-bo-2

- Thịt bò kết hợp cùng đường đỏ sẽ dẫn đến trường khí.

- Thịt bò kết hợp với đồ muối (rau, dưa muối) sẽ dễ bị trúng độc.

- Thịt bò kết hợp cùng cá nheo, ốc đồng sẽ có thể dẫn tới bị trúng độc.

- Thịt bò kết hợp cùng đậu tương sẽ có thể làm tổn thương ngũ tạng.

(Theo Sức Khỏe Gia Đình)

Vì sao trẻ lại dễ mắc bệnh hơn trong mùa đông?

Nhưng ngoài yếu tố thời tiết, còn những lý do nào khiến các bé dễ đau ốm hơn trong mùa lạnh?

Vào mùa đông, trẻ nhỏ có nguy cơ cao mắc hàng loạt các nhóm bệnh về đường hô hấp, hệ tiêu hóa hoặc bệnh truyền nhiễm, bệnh da liễu hoặc các vấn đề về tâm lý do một số nguyên nhân chính sau:

Không khí lạnh tạo điều kiện thuận lợi cho vi-rút phát triển

Thời điểm giao mùa thu đông, đông xuân, nhiệt độ xuống thấp, độ ẩm trong không khí cao, cộng thêm sức đề kháng của cơ thể bị suy giảm trong khi các vi sinh vật (ký sinh trùng, nấm mốc, vi-rút…) có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Thời tiết lạnh, các vi khuẩn, vi-rút càng kéo dài thời gian tồn tại trong không khí. Khi con người, đặc biệt là trẻ nhỏ (sức đề kháng còn yếu) hít phải không khí ô nhiễm này, chúng sẽ nhanh chóng xâm nhập với đường hô hấp gây tổn thương niêm mạc, khí quản, phế quản.

Nếu các bé không được gia đình chăm sóc chu đáo, mặc quần áo phong phanh, mặc đồ ướt hoặc mặc quá ấm trong khi người đổ mồ hôi mà không thay kịp khiến cơ thể nhiễm lạnh, dễ mắc viêm họng, viêm phổi, viêm amidan. Và nếu thể chất của trẻ vốn yếu ớt, suy dinh dưỡng hoặc có tiền sử mắc các bệnh mãn tính thì nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp sẽ càng cao.

Mùa đông trẻ rất dễ mắc bệnh và hay phải nhập viện

Một số loại vi khuẩn, vi-rút có khả năng gây viêm phổi đặc biệt phát triển, sinh sôi trong mùa lạnh như H.influenzae, S.pneumoniae, vi-rút cúm, vi-rút sởi, vi-rút H5N1… Do quá trình truyền bệnh thường do tiếp xúc chung không khí hàng ngày với người nhiễm bệnh nên khi một trẻ nhiễm bệnh có lây bệnh sang có nhiều trẻ lành khác trong lớp học, trong gia đình hoặc khu phố nếu không được cách ly an toàn.

Môi trường sống ô nhiễm

Môi trường sống kém vệ sinh, trong gia đình của trẻ có người thân hút thuốc lá, thuốc lào. Không gian phòng ở chật chội, thiếu ánh sáng, ẩm thấp, nhà sử dụng bếp than, củi đun nấu, sưởi ấm… đều là những nguyên nhân gián tiếp tăng nguy cơ mắc bệnh cho trẻ ngày đông.

Một số sai lầm chăm sóc con của bố mẹ lại có thể khiến trẻ mắc bệnh

Hội chứng rối loạn cảm xúc theo mùa

Khi mắc hội chứng này, trẻ nhỏ thường xuyên ốm vặt trong mùa đông, cơ thể luôn mệt mỏi, uể oải, dễ cáu gắt, bực bội, không muốn hoạt động hoặc ngại tiếp xúc với mọi người. Người ta còn gọi rối loạn này với tên gọi chứng trầm cảm mùa đông vì thường xảy ra vào thời điểm cuối thu, sang đông.

Nguyên nhân là do vào mùa đông, ngày ngắn, đêm dài, thời tiết âm u, lạnh lẽo khiến nhịp sinh học của cơ thể mất cân bằng. Hoóc-môn Melatonin do tuyến tùng tiết ra, có vai trò với chu kỳ thức-ngủ ở con người bị ảnh hưởng.

Khi thấy trẻ có dấu hiệu bất thường về tâm lý vào mùa đông, cha mẹ nên thận trọng nghĩ đến rối loạn cảm xúc theo mùa. Không nên vì ngại lạnh mà cấm cửa không cho trẻ vui chơi, vận động ngoài trời, đồng thời bổ sung thực phẩm giàu omega-3, rau quả tươi, vitamin D3… rất có lợi cho cơ thể, vừa có tác dụng chống trầm cảm.

Cho trẻ đi khám nếu có dấu hiệu bất thường, tránh tự ý dùng thuốc cho trẻ

Khan hiếm vắc-xin: Phải chờ đợi khiến trẻ không được tiêm phòng

Từ đầu năm đến nay, nhiều bệnh nhi mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như ho gà, sởi, rubella... Nguyên nhân là chưa được tiêm vắc xin hoặc tiêm chưa đầy đủ.

Nhiều gia đình có trẻ nhỏ có tâm lý chờ đợi tiêm vắc-xin dịch vụ mà không đưa trẻ đi tiêm chủng theo lịch của Chương trình tiêm chủng mở rộng. Hoặc có cha mẹ lại lo sợ phản ứng sau tiêm chủng, sợ con ốm nên tránh không muốn cho con đi tiêm.

Các bác sĩ khẳng định, tiêm phòng là biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh, giảm số trường hợp mắc bệnh, giảm tỷ lệ tử vong, nhất là ở trẻ em, có thể bảo vệ được 90 - 95% trẻ. Vào mùa đông xuân, các vi khuẩn, vi-rút phát triển và lây lan mạnh mẽ, càng làm tăng nguy cơ mắc bệnh của trẻ em nhất là các bệnh cúm, sởi, rubella, ho gà, tiêu chảy... Gia đình có con nhỏ cần nắm vững lịch tiêm chủng, cần tìm hiểu các mũi tiêm cho trẻ theo độ tuổi, tiêm phòng đầy đủ, đặc biệt là trẻ dưới 1 tuổi để phòng bệnh cho trẻ.

Thanh Lê

Bệnh thường gặp ở đường hô hấp

Trời trở lạnh, cơ thể con người kém thích nghi với nhiệt độ lạnh, suy giảm sức đề kháng nên rất dễ bị mắc các bệnh về đường hô hấp. Vì vậy chúng ta cần hiểu biết các biện pháp phòng bệnh để bảo vệ sức khỏe, nhất là người cao tuổi và trẻ em.

Phòng các bệnh cúm mùa

Thời tiết lạnh giá, có khi còn rét đậm và rét hại nên bệnh cúm có nguy cơ bùng phát. Bệnh cúm dễ lây lan qua tiếp xúc trực tiếp, nhất là trong các phòng kín, tập trung đông người như phòng học, phòng họp, nhà ga, bến xe, chợ, siêu thị… Để phòng bệnh, mọi người cần thực hiện các biện pháp sau đây: đeo khẩu trang khi ra đường, đến nơi công cộng, cơ quan, trường học. Thường xuyên rửa tay mỗi khi tiếp xúc với đồ vật như tay cầm chốt cửa, vòi nước, trao đổi tiền khi mua bán, dụng cụ lao động… Giữ ấm cơ thể: cần mặc quần áo ấm, chú ý giữ ấm vùng cổ ngực bằng cách quàng khăn khi trời lạnh, tránh bị ướt, tránh dầm nước trong thời tiết lạnh. Súc miệng, họng bằng nước sát khuẩn hằng ngày hoặc làm theo hướng dẫn của cơ quan y tế. Tránh hoặc hạn chế đến những nơi đông người hoặc nơi có dịch bệnh. Nâng cao sức đề kháng của cơ thể bằng cách ăn uống đầy đủ, chú ý không bỏ bữa sáng. Không uống nhiều rượu bia vì sẽ làm giảm sức đề kháng. Tránh thức khuya, bổ sung vitamin C hằng ngày qua ăn uống hoặc uống vitamin C tổng hợp. Khi có triệu chứng: sổ mũi hắt hơi, đau mình mẩy cần đi khám bệnh để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Mặc ấm, đeo khẩu trang khi ra đường để phòng bệnh cúm và các bệnh đường hô hấp.

Các bệnh phổi, phế quản

Với yếu tố thời tiết như: độ ẩm cao, nhiệt độ thấp, khả năng đề kháng của cơ thể bị suy giảm, các vi khuẩn gây bệnh, virut, nấm, ký sinh trùng phát triển mạnh. Khi cơ thể nhiễm lạnh, đường hô hấp trên bị tổn thương gây ra viêm mũi, viêm họng, viêm xoang, từ đó nhiễm khuẩn lan xuống dưới gây viêm phế quản, viêm phổi. Do đó cần chú ý đề phòng một số bệnh thường gặp như sau :

Hen phế quản: bệnh nhân hen rất nhạy cảm với các kích thích như nhiệt độ lạnh, khói, bụi, nấm mốc, vi khuẩn, các yếu tố gây dị ứng như vi khuẩn, thức ăn, thuốc chữa bệnh…Các thể hen dễ phát là: hen phế quản thể khó thở kịch phát, thường gặp ở trẻ nhỏ; thể khó thở liên tục xuất hiện ngay từ đầu thường gặp ở bệnh nhân bị hen lâu ngày; thể hen có tràn khí màng phổi xảy ra ở người phế nang đã bị giãn; thể hen ác tính, hen do sử dụng thuốc aspirin; thể hen có cơn tăng huyết áp kèm theo... Phòng tránh bệnh chủ yếu là phải tránh các yếu tố gây bệnh như: tránh bị nhiễm lạnh, tránh hít thở phải bụi, ký sinh vật, nấm mốc… bằng cách đeo khẩu trang. Khi cơn hen đã xảy ra, bệnh nhân cần được đưa đến bệnh viện để được điều trị kịp thời, nhanh chóng cắt cơn hen, ngăn ngừa cơn hen phát triển thành ác tính.

Viêm phế quản cấp: mầm bệnh gây viêm phế quản cấp mùa đông thường là các loại virut… khi bị bệnh cơ thể giảm sức đề kháng nên dễ bị bội nhiễm bởi các loại vi khuẩn thường trú ở đường hô hấp. Phòng bệnh giống như phòng bệnh cúm đã nói trên. Khi đã mắc bệnh phải điều trị tích cực bằng kháng sinh chống bội nhiễm, nâng cao thể trạng cho bệnh nhân để phòng tránh các biến chứng nặng như viêm phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết.

Tâm phế mạn: mùa lạnh bệnh nhân tim phổi mạn tính rất dễ bị nhiễm khuẩn tạo nên những đợt bệnh cấp tính. Bệnh diễn biến nặng đột ngột, khó thở nhiều, có thể chỉ sau vài đợt bệnh cấp là tử vong. Do đó cần biết phòng tránh không để xảy ra đợt cấp của tâm phế mạn trong mùa lạnh. Bệnh nhân phải kiên quyết bỏ hút thuốc lá, thuốc lào. Đeo khẩu trang hoặc dùng các phương tiện bảo hộ lao động khi làm việc trong môi trường nhiều khói bụi. Thường xuyên luyện tập thể dục để có một bộ máy hô hấp khỏe mạnh. Nên làm việc nhẹ, không nên gắng sức. Không nên ăn mặn. Nơi ở và phòng ngủ cần thoáng khí. Khi đã bị suy tim phải nên nghỉ ngơi hoàn toàn, tuyệt đối tránh gắng sức. Giữ ấm cơ thể, tránh tắm nước lạnh, không ăn thức ăn lạnh, không uống nước đá hoặc ăn kem.

Giãn phế quản:

khi thời tiết lạnh ẩm, bệnh nhân thường bị giãn phế quản ướt hay giãn phế quản xuất tiết, với triệu chứng: ho khạc nhiều đờm, nguyên nhân thường do vi khuẩn bội nhiễm. Nhiệt độ lạnh là yếu tố kích thích phế quản xuất tiết, niêm dịch gây ứ đọng trong các phế quản tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Phòng chống bệnh bằng cách chống lạnh, ăn uống đầy đủ, đảm bảo giấc ngủ hằng ngày, giữ vệ sinh răng miệng, tai mũi họng bằng cách nhỏ nước muối sinh lý ngày 2-3 lần vào mắt, mũi.

ThS. Phạm Thanh Tùng

Vì sao bị đái tháo nhạt?

Mấy tháng nay tôi uống nhiều nước và đi tiểu nhiều, đi khám bệnh kết quả ghi là đái tháo nhạt. Vì sao tôi bị bệnh này, nên chữa trị thế nào?

Mai Xuân Viễn(Quảng Trị)

Bệnh đái tháo nhạt do nhiều nguyên nhân gây ra, như: tuyến nội tiết trong cơ thể là tuyến yên không sản xuất đủ hormon ADH chống bài niệu; tổn thương tuyến yên hoặc vùng dưới đồi do phẫu thuật, khối u, viêm màng não, chấn thương sọ não; do thận không đáp ứng với hoạt động của chất nội tiết ADH, vì khiếm khuyết ở ống thận hoặc bệnh thận mạn tính… Tuy nhiên cũng có khoảng 25% các trường hợp đái tháo nhạt không rõ nguyên nhân. Hai triệu chứng nổi bật của bệnh là: đi tiểu rất nhiều cả ngày lẫn đêm, từ 2,5 lít trở lên, có khi tới 15 - 20 lít/ngày; khát nước rất nhiều, nên bệnh nhân phải uống nhiều nước.

Ảnh minh họa (nguồn Internet).
Bệnh nhân không bị gầy nhiều mà chỉ hơi gầy; mệt mỏi, đau đầu, đau mỏi cơ do bị rối loạn nồng độ các chất canxi, kali, natri… hay cáu gắt; da và môi khô; nếu nặng có thể bị sốt, nôn hoặc tiêu chảy, nhịp tim nhanh, tụt huyết áp. Điều trị cần uống nước đầy đủ hoặc phải truyền dịch, dùng chất nội tiết thay thế, ăn nhạt để hạn chế thận tăng thải nước tiểu… Bạn cần thực hiện đúng chỉ định điều trị của bác sĩ.

BS. Nguyễn Thị Thắm

Nguyên nhân phổ biến gây tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi

Sinh non

Bình thường trẻ được sinh ra ở tuần 39 hoặc 40 của thai kỳ. Trẻ càng sinh đủ ngày đủ tháng càng có khả năng phát triển tốt. Trẻ sinh ra trước 37 tuần được coi là sinh non và đây là một trong những nguyên nhân chính của tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi trên toàn cầu. Sinh non có thể gây ra nhiều biến chứng ảnh hưởng tới sự sinh tồn của trẻ như rối loạn hô hấp, phổi yếu nên không thể giữ các phế nang khỏi bị xẹp, xuất huyết trong mạch hoặc xuất huyết não có thể dẫn tới tử vong, các rối loạn tiêu hóa, các nhiễm trùng có thể tấn công hệ miễn dịch còn non nớt và kết quả là gây tử vong

Sinh non hay gặp ở những bà mẹ mang đa thai, có bệnh ở tử cung hoặc cổ tử cung, có tiền sử sinh non, bị tiền sản giật hoặc tiểu đường. Ngoài ra, hút thuốc và uống rượu khi mang thai cũng được cho là gây sinh non. Điều này giải thích tại sao sức khỏe của bà mẹ khi mang thai là rất quan trọng với sức khỏe của trẻ và chống lại những ca tử vong đáng tiếc.

Ảnh minh họa.

Hội chứng đột tử ở trẻ nhỏ

Trẻ đôi khi có thể tử vong vì những lý do không giải thích được được gọi là hội chứng đột tử ở trẻ nhỏ (SIDS). Nhưng các chuyên gia vẫn tìm thấy có mối liên quan giữa SIDS và tư thế ngủ của trẻ. Mặc dù chưa có bất cứ giải thích nào cụ thể về nguyên nhân gây ra SIDS, nhiều nghiên cứu và các chuyên gia cho rằng trẻ ngủ nằm sấp hoặc nằm nghiêng trong tháng đầu đời bị khó thở vì đường hô hấp bị chèn ép. Điều này dẫn tới giảm hấp thu oxy do đó hạn chế não gửi tín hiệu tới cơ thể để thức dậy do khó thở.

Dị tật bẩm sinh

Dị tật bẩm sinh là một yếu tố khác gây tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi. Mặc dù các xét nghiệm và chẩn đoán trước sinh có thể chữa hoặc ít nhất là ngăn ngừa sớm hậu quả của những khuyết tật này, nhưng những khuyết tật lớn thường không được phát hiện sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Các dị tật bẩm sinh phổ biến nhất gây tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi là: dị tật tim, nhiễm sắc thể bất thường, khiếm khuyết hệ thần kinh trung ương.

Cân nặng sơ sinh thấp

Trẻ sinh ra bị nhẹ cân phải đối mặt với những thử thách sinh tồn lớn nhất trong những ngày đầu. Hầu hết những trẻ sinh non đều nhẹ cân. Nhưng thậm chí trẻ đủ ngày tháng nhưng cân nặng dưới 2,5kg cũng được coi là nhẹ cân. Nhu cầu của trẻ nhẹ cân khác với những trẻ có cân nặng tốt khi sinh ra. Được nuôi dưỡng và vệ sinh hợp lý có thể giúp trẻ tăng cường sức khỏe và có cơ hội sống sót.

Sức khỏe của mẹ

Sức khỏe của mẹ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ thậm chí ngay sau khi sinh con. Sức khỏe mẹ kém, ví dụ như thiếu máu nghiêm trọng, huyết áp cao hoặc biến chứng nhau thai có thể khiến trẻ bị tử vong sớm.

BS Cẩm Tú

(Theo THS/ Univadis)

Hội chứng chuyển hóa

“Hội chứng chuyển hóa” (HCCH) là thuật ngữ dùng để chỉ người có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch và đái tháo đường. Theo trực giác của bản thân, tất cả chúng ta gần như đều biết rằng tình trạng béo phì, tăng huyết áp, cholesterol máu cao là không tốt. Chúng ta cũng biết rằng, đề kháng insulin thường có trước đái tháo đường typ 2 và bản thân nó đã là một tình trạng bệnh lý quan trọng cần thiết phải được điều trị.

Người bệnh cần hiểu rằng, việc điều trị các yếu tố nguy cơlà rất quan trọng, trước khi chúng gây tác hại cho sức khỏe. Việc tư vấn của người thầy thuốc diễn ra trong khoảnh khắc tại cơ sở y tế trong khi việc thực hiện theo tư vấn cần phải được bệnh nhân áp dụng trong đời thường, gần như suốt cuộc đời của họ. Cần phải bắt đầu bằng lựa chọn thực phẩm và tăng cường vận động.

Hội chứng chuyển hóa - Nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường 1

Bệnh nhân nam béo phì chiều cao 177cm, cân nặng 146kg,chỉ số khối cơ thể BMI 46. Lưu ý trạng thái béo bụng với cơ thể có dạng quả táo. (Theo Wikipedia)

Hội chứng chuyển hóa là gì?; Có thường gặp không?

HCCH bao gồm 1 nhóm các yếu tố nguy cơ tập hợp lại trên một người bệnh: Tình trạng béo bụng; Rối loạn lipid máu (là tình trạng rối loạn các chất béo trong máu như triglycerid máu cao, HDL-C máu thấp, LDL-C cao, tạo nên mảng xơ vữa ở thành động mạch); Tăng huyết áp; Tình trạng kháng insulin hoặc không dung nạp đường (là tình trạng cơ thể không thể sử dụng insulin và đường một cách hiệu quả); Tình trạng tiền đông máu (tăng fibrinogen và chất ức chế plasminogen hoạt hóa PAI-1 cao trong máu); Tình trạng tiền viêm (CRP tăng cao trong máu).

Khoảng 20-30% dân số của các nước phát triển mắc hội chứng này. Năm 2010, số người mắc căn bệnh này tại Mỹ được ước tính là vào khoảng 50-70 triệu người.

Làm thế nào để chẩn đoán hội chứng chuyển hóa?

Theo Tổ chức Y tế Thế giới áp dụng chẩn đoán khi người bệnh có từ 3 yếu tố trở lên trong các yếu tố sau:

Nam có vòng bụng ≥ 90cm, nữ có vòng bụng ≥ 80cm.

Triglycerid máu ≥ 150mg/dl.

HDL-C < 40mg/dl (nam) và <50mg/dl (nữ)

Huyết áp ≥ 130/85mmHg.

Tăng glucose máu khi đói ≥ 100mg/dl.

Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây bệnh.

Nguyên nhân

HCCH có liên quan tới tình trạng đề kháng insulin. Insulin là một hormon do tụy sản xuất ra có tác dụng kiểm soát lượng đường trong máu.

Bình thường thức ăn được tiêu hóa thành đường (glucosse). Glucose này được máu mang tới các tổ chức của cơ thể, ở đó các tế bào sử dụng glucose làm nguồn năng lượng. Glucose này vào được trong tế bào là nhờ insulin. Ở người có đề kháng insulin, glucose không thể vào tế bào một cách dễ dàng. Cơ thể phản ứng bằng cách sản suất nhiều hơn các insulin (thường là loại kém phẩm chất) để giúp glucose vào tế bào. Kết quả là nồng độ insulin tăng cao trong máu. Tình trạng này đôi khi dẫn đến đái tháo đường khi tuyến tụy không có khả năng tiết đủ insulin để điều chỉnh đường huyết về mức bình thường.

Ngay cả khi mức glucose trong máu chưa đủ cao tới mức được coi là đái tháo đường thì nồng độ glucose máu tăng lên vẫn có thể có hại. Trong thực tế, các bác sĩ gọi đây là tình trạng “tiền đái tháo đường”. Nồng độ insulin máu tăng lên sẽ làm tăng triglycerrid máu và các chất béo khác. Tất cả các yếu tố đó ảnh hưởng tới thận và làm huyết áp cao hơn lên. Tất cả các tác hại do hiện tượng kháng insulin gây ra trên đây gây nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường và các bệnh khác.

Dự án Quốc gia phòng chống bệnh tăng huyết áp - Viện Tim mạch Việt Nam

Những biến chứng gây nguy hiểm ở bệnh thủy đậu

Thủy đậu là một trong những bệnh có khả năng lây lan thành dịch cao nhất. Nhất là khi đối tượng mắc bệnh chủ yếu lại là trẻ em. Đối với nhữn...