Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Tập luyện phục hồi chức năng: Liệu pháp điều trị thoái hóa khớp

Khi được hỏi về lợi ích của các liệu pháp điều trị thoái hóa khớp khác nhau, các chuyên gia châu u đặt tập luyện phục hồi chức năng lên hàng đầu, trên cả phẫu thuật khớp, thuốc giảm đau và giáo dục kiến thức về bệnh cho bệnh nhân.

Tập luyện phục hồi chức năng (PHCN) là biện pháp điều trị hiệu quả đối với thoái hóa khớp thông qua một số cơ chế. Các hoạt động cơ làm giảm đau thông qua cơ chế tương tác tương tự như châm cứu. Đó là làm tăng nồng độ endophin trong não làm giảm cảm giác đau. Tăng sức mạnh của cơ và cải thiện chức năng thần kinh cơ giúp tăng sự ổn định xung quanh khớp và giúp giảm tải lên khớp. Nghiên cứu cho thấy, 4 tháng tập luyện phục hồi chức năng không chỉ cải thiện sức mạnh cơ mà còn cải thiện chất lượng của sụn khớp gối. Tập luyện thường xuyên còn giúp giảm cân từ đó giúp giảm trọng tải lên khớp.

Liệu pháp điều trị thoái hóa khớp 1

Đạp xe là phương pháp tập phù hợp nhất đối với người thoái hóa khớp. (Nguồn internet)

Tuy nhiên, quá trình tập luyện rất dễ bị thất bại. Bệnh nhân thường khó duy trì việc tự tập luyện khi triệu chứng đau đã giảm mặc dù đã được bác sĩ phục hồi chức năng hướng dẫn. Để đạt được hiệu quả, tập luyện phục hồi chức năng và hoạt động thể lực phải được thực hiện thường xuyên.

Phương pháp tập luyện PHCN

Thoái hóa khớp là một bệnh mạn tính. Việc tập luyện PHCN phải được đưa vào cuộc sống hằng ngày và quan trọng nhất là lựa chọn hình thức tập phù hợp cho từng bệnh nhân. Để tạo thuận lợi cho việc tập luyện, bệnh nhân nên được đánh giá ban đầu và ở từng giai đoạn, nhằm điều chỉnh chương trình tập luyện cho phù hợp và nhằm tối ưu hóa lực tải đè ép lên các khớp bị ảnh hưởng. Điều đó có thể đạt được thông qua các bài tập tăng sức cơ, làm tăng sức ép lên các yếu tố thần kinh cơ, mà ít gây tải trọng lên khớp. Khi bắt đầu tập luyện, bệnh nhân sẽ có cảm giác đau tăng lên. Tuy nhiên, tình trạng đau sẽ giảm dần sau khi tập và sẽ không tăng theo thời gian. Trong giai đoạn này, bệnh nhân cũng có thể được áp dụng các biện pháp giảm đau tạm thời như điện phân, sóng ngắn, hồng ngoại, paraphin, châm cứu... Một hình thức tập luyện đã được chứng minh tính hiệu quả và dễ được áp dụng là đạp xe, khi đó các cơ được vận động tối đa mà rất ít gây tải trọng lên các khớp.

Yếu tố nguy cơ quan trọng đối với thoái hóa khớp là chấn thương. Do chấn thương khớp thường xảy ra trong khi hoạt động thể lực, vì vậy tốt nhất nên xem xét các hoạt động thể lực nào là phù hợp. Chấn thương thường xảy ra trong bóng đá và các môn thể thao khác như cầu lông, tennis, bóng bàn..., do đó bệnh nhân thoái hóa khớp nên tránh tập luyện các môn thể thao này.

Bệnh nhân thoái hóa khớp toàn bộ hoặc đau cơ xơ có phản ứng mạnh đối với tập luyện, cần được chỉ định cường độ rất thấp trong thời gian dài và hiệu quả thường không bằng thoái hóa khớp ở các khớp riêng lẻ. Các chỉ định cho bệnh nhân thoái hóa khớp trong bài không thích hợp cho các nhóm bệnh này.

Các hình thức tập luyện PHCN phù hợp

Đạp xe ngoài trời hoặc đạp xe tại chỗ: Là hình thức tập luyện hiệu quả giúp kích thích các nhóm cơ lớn ở chân với mức độ tải trên khớp thấp. Các dữ liệu cho thấy đây là hình thức tập luyện phù hợp nhất và giúp tăng sức mạnh cơ đồng thời giảm bệnh tật. Tuy nhiên, vị trí của yên xe và tay lái rất quan trọng. Yên xe nên được điều chỉnh sao cho khi duỗi gối hết mức, gối gập 1 góc từ 0 - 15 độ. Nên gắn thêm đồng hồ theo dõi tốc độ. Nên chọn xe có yên ngồi thoải mái, đồng thời có thể dễ dàng điều chỉnh yên xe và tay lái.

Đi bộ: An toàn cho hầu hết bệnh nhân, dễ thực hiện, không tốn chi phí. Cải thiện sức khỏe, giảm đau và chống trầm cảm. Nhưng không phù hợp với thoái hóa khớp nặng ở các vị trí hông, gối và mắt cá chân.

Đi bộ với gậy: Phương pháp này cũng giúp cải thiện nhanh hơn so với đi bộ không có gậy. Cũng có hiệu quả cho các bệnh lý ở cổ và lưng. Cần chú ý: Lựa chọn độ dài gậy thích hợp để hãm tốt và chuyển động theo kiểu con lắc một cách thoải mái, giúp không làm đau vai. Gậy nên cao hơn 1m trên khuỷu tay khi đứng thẳng với cánh tay xuôi dọc theo cơ thể. Chọn gậy có thể điều chỉnh được độ dài.

Chạy bộ: Chưa đủ bằng chứng khoa học trên bệnh nhân thoái hóa khớp. Có thể gây chấn thương do quá tải tại khớp. Các thay đổi về tình trạng cơ học như trong thoái hóa khớp sẽ dẫn đến tăng nguy cơ chấn thương và tạo lực tải cao cho khớp hông, khớp gối và khớp cổ chân.

Ngoài ra, dùng máy chạy bộ hoặc chạy bộ dưới nước có tải trọng lên khớp gối và bàn chân.

Bơi lội và các môn thể thao dưới nước sẽ rất ít áp lực lên các khớp.

Khiêu vũ: Các nghiên cứu cho thấy khiêu vũ có tác dụng cải thiện sức khỏe và tăng khả năng vận động cũng như giảm đau, giảm bệnh và chống trầm cảm nhưng có thể gây tải trọng lớn cho khớp. Nguy cơ chấn thương cao. Không phù hợp với thoái hóa khớp nặng ở các vị trí hông, gối và mắt cá chân.

Leo cầu thang và máy tập nâng bước: Hoạt động chức năng, tương tự như đi bộ lên cầu thang. Nhiều tài liệu cho thấy, bệnh nhân trẻ có tổn thương khớp gối tập với máy tập nâng bước cũng có hiệu quả tốt.

BS. Mai Trung Dũng

(Phó Chủ nhiệm Khoa Phục hồi chức năng - Bệnh viện 354)

Cần làm gì khi bị suy nhược cơ thể?

Suy nhược cơ thể là gì?

Suy nhược cơ thể là tình trạng bệnh lý kéo dài với những biểu hiện lo âu, khó ngủ, mệt mỏi, làm việc năng suất giảm... Có người vượt qua trong thời gian ngắn nhưng có người phải chữa dài ngày. Vậy, khi cơ thể suy nhược cần có chế độ ăn uống cân bằng, sinh hoạt khoa học.

Nguyên nhân

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cơ thể suy nhược. Ở một số người lao động quá sức, ăn uống kiêng khem, thiếu chất dinh dưỡng dễ dẫn đến cơ thể suy nhược. Đối với một số bệnh nhân do mắc bệnh lý tâm thần có biểu hiện rối loạn cảm xúc như bực tức, nóng nảy, đôi khi quá nhạy cảm dễ kích động. Khi đó, người bệnh thường mất cảm giác thích thú, thụ động, thiếu sức sống. Có hiện tượng rối loạn tình dục với những triệu chứng mất khoái cảm ở nữ và xuất tinh sớm, bất lực ở nam. Đối với một số người bệnh là sau khi phẫu thuật, sinh đẻ hoặc mắc một số bệnh lý mạn tính nào đó… khiến suy nhược cơ thể.

an-uong-day-du-chat-dinh-duong-giup-khac-phuc-suy-nhuoc-co-the

Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng giúp khắc phục suy nhược cơ thể

Biểu hiện

Các triệu chứng hay gặp nhất là rối loạn giấc ngủ như mất ngủ, khó ngủ, ngủ chập chờn, đôi khi có ác mộng. Có hiện tượng mỏi cơ như đau nhức cơ, chuột rút, đau lưng, mệt mỏi khi vận động. Thường thấy ù tai, hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, sợ ánh sáng. Ngoài ra, còn có các rối loạn lo âu với cảm giác bồn chồn, khó chịu trong cơ thể, lo sợ, bi quan, mệt, uể oải, hay đổ mồ hôi trộm, da xanh xao tái nhợt, đôi khi ngất xỉu. Có cảm giác chán ăn, đầy hơi, buồn nôn, giảm ngon miệng, sụt cân.

Cách khắc phục suy nhược cơ thể

Cách khắc phục

Tùy theo nguyên nhân mà cách khắc phục cho phù hợp. Đối với bệnh nhân sau phẫu thuật, sinh đẻ… cơ thể giảm sút toàn thân thì bên cạnh thuốc trị bệnh chính cần bổ sung nước, điện giải, chú ý chế độ ăn uống.

Thực đơn ăn uống cần đảm bảo 4 thành phần (đạm, béo, bột đường, vitamin) nhưng cần bổ sung thêm nhiều rau xanh như súp lơ, cải chíp, những loại rau nhiều axit folic và vitamin tốt cho sức khỏe, dễ ăn. Những loại hoa quả có vị thanh như thanh long, nho, cam… Nên ăn nhiều những món ăn mà mình có cảm giác ngon và thích thú. Nếu ăn uống thấy không ngon miệng thì nên chế biến món ăn loãng, dễ tiêu.

Đối với người lao động quá sức ăn uống cần đủ chất đạm, lipit ( thịt, cá, trứng,…) và cần chú ý thêm chế độ nghỉ ngơi, học và làm việc hợp lý, nhất là đảm bảo giấc ngủ trưa từ 30 phút đến một giờ. Tránh những stress, tập thư giãn, tập thở là một trong những phương cách tốt giúp cơ thể điều chỉnh nhịp thở. Cần xoa bóp chân tay, nhất là vùng lưng và các khớp gối. Không uống cà phê, bia rượu, hút thuốc lá. Nếu các biểu hiện suy nhược không được cải thiện cần đến cơ sở y tế để được tư vấn và điều trị thích hợp.

Đối với người bệnh suy nhược cơ thể do các rối loạn trầm cảm, lo âu và rối loạn thần kinh thì phải dùng các thuốc chống trầm cảm, lo âu. Việc điều trị phải liên tục và kéo dài trung bình sáu tháng đến hai năm và có bác sĩ chuyên khoa tâm thần, tâm lý, nội thần kinh theo dõi.

Thạc sĩ Nguyễn Ngọc

5 món giúp trị suy nhược thần kinh5 món giúp trị suy nhược thần kinhSuy nhược thần kinh có chữa khỏi?Suy nhược thần kinh có chữa khỏi?Suy nhược thần kinh và suy nhược cơ thểSuy nhược thần kinh và suy nhược cơ thể

Không khám sức khỏe định kỳ: Sai lầm!

“Số đông người dân vẫn chưa chú trọng đến việc khám sức khỏe định kỳ. Đó là một sai lầm. Thực ra khi chưa có triệu chứng gây khó chịu hoặc thậm chí còn đang cảm thấy khỏe mạnh thì nhiều bệnh đã có thể đang âm thầm phát triển. Khi phát hiện thì bệnh đã trở nặng, chi phí điều trị cao, cũng có khi bệnh đã đi vào giai đoạn cuối có thể dẫn đến tử vong…”, Ths.BS. Trịnh Thị Diệu, Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, khẳng định.

Khổ vì quan niệm “bói ra ma, quét nhà ra rác”

Theo Ths.BS. Trịnh Thị Diệu Thường, khi cuộc sống tất bật và có quá nhiều lo toan như hiện nay, việc khám sức khỏe định kỳ được nhiều người xem như là một việc làm xa xỉ, lãng phí, tốn thời gian. Đáng lưu tâm hơn, có không ít người lại có quan niệm rằng: “bói ra ma, quét nhà ra rác”. Bác sĩ khám kiểu gì cũng ra bệnh. Đang yên vui bỗng dưng phải sống trong lo sợ, hoang mang vì bệnh tật. Thôi: “Trời kêu ai nấy dạ”. Ths.BS.Trịnh Thị Diệu Thường cho rằng, quan niệm như vậy là sai lầm. Có nhiều bệnh nguy hiểm khi mới mắc thường không có biểu hiện gì bất thường. Tuy nhiên, khi phát hiện ra với những triệu chứng điển hình thì bệnh đã ở vào giai đoạn rất nặng.

Cần đi khám sức khỏe định kỳ để tầm soát và phát hiện sớm bệnh

Anh Võ Thành N. 36 tuổi, ngụ tại quận Phú Nhuận, TP.HCM, đã phải thay đổi ngay quan niệm “bói ra ma, quét nhà ra rác” sau một lần bị bệnh “thập tử nhất sinh”. Anh rùng mình kể lại: trước đây anh thường bị ho, tức ngực. Mỗi lần như vậy anh lại tự ý đi mua thuốc ở nhà thuốc về uống. Cũng có một vài lần uống thuốc mãi không hết, anh đi khám bác sĩ. Bác sĩ ghi trên toa thuốc anh bị viêm phế quản. Dù bị như vậy nhưng mỗi năm khi công ty anh tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho nhân viên anh vẫn tự rút tên mình ra khỏi danh sách. Lý do là, sợ biết mình mắc bệnh lắm, kiểu gì đi khám, bác sĩ chẳng phán anh bị bệnh này bệnh nọ. Vào giữa năm 2010, anh bị ho dữ dội, khó thở và đầu óc thấy lơ mơ. Anh không nhớ mình nói gì, làm gì và đang ở đâu. Vào cấp cứu tại BV. Phạm Ngọc Thạch, anh được chẩn đoán bị lao phổi. Phát hiện bệnh trễ nên anh đã bị biến chứng lên não. Sau khi may mắn chữa khỏi bệnh, giờ anh là người đầu tiên ở công ty đăng ký khám sức khỏe định kỳ.

Ths.BS. Trịnh Thị Diệu Thường cho biết, khám sức khỏe định kỳ là việc làm rất quan trọng, giúp mỗi người phòng và phát hiện bệnh sớm, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đây cũng là dịp để có được cái nhìn tổng quát về sức khỏe bản thân, tránh được các lo lắng không cần thiết. Tuy nhiên, rất ít người ý thức được sự cần thiết của công việc này. Chẳng hạn, số liệu thống kê cho thấy, ở Việt Nam có khoảng 42 - 64% số phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị bệnh viêm nhiễm phụ khoa. Song hầu hết mọi người chỉ đi khám khi có bệnh mà không hề chủ động thăm khám định kỳ. Báo cáo của BV. Nội tiết Trung ương cho thấy có tới 65% số bệnh nhân bị mắc bệnh đái tháo đường mà hoàn toàn không biết mình đang bị bệnh. Như vậy sẽ rất nguy hiểm khi bệnh đã diễn tiến nặng và có nhiều biến chứng. Trong khi đó, nếu khám sức khỏe định kỳ hàng năm thì bệnh đái tháo đường sẽ được chẩn đoán sớm và chỉ bằng một xét nghiệm đơn giản.

Phát hiện nhiều bệnh nguy hiểm

Ths. Diệu Thường cho rằng, khám sức khỏe định kỳ có thể phát hiện ra nhiều bệnh nguy hiểm như bệnh lao, tim mạch, các rối loạn chức năng hô hấp, cao huyết áp, ung thư phổi, dạ dày, vòm họng hay bệnh viêm gan siêu vi. Thường xuyên thăm khám sức khỏe kèm theo các xét nghiệm sẽ giúp phát hiện ra mình có nhiễm vi rút viêm gan: viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C hay không. Như vậy sẽ tránh được hậu quả là khi phát hiện ra bệnh thì đã có biến chứng xơ gan hay ung thư gan. Khám sức khỏe định kỳ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện các bệnh ung thư. Trong giai đoạn đầu, bệnh ung thư thường không có biểu hiện triệu chứng gì cả, tuy nhiên có những nhóm bệnh có nguy cơ ung thư cao cần phải đặc biệt chú ý.

Với các chị em phụ nữ, cần đi khám để phát hiện sớm và chữa trị các bệnh phụ khoa như viêm âm đạo, viêm nội mạc tử cung, viêm buồng trứng, viêm ống dẫn trứng, u xơ tử cung nhằm tránh các di chứng nặng nề như viêm dính vòi trứng, gây vô sinh hoặc thai ngoài tử cung và đặc biệt là ung thư cổ tử cung. Phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên khám phụ khoa để phát hiện ung thư cổ tử cung ít nhất 3 năm/lần cho đến lúc 69 tuổi. Một xét nghiệm PAP (phết tế bào cổ tử cung) đơn giản có thể giúp phát hiện các tổn thương tiền ung thư của tế báo cổ tử cung. Các xét nghiệm máu về HPV (một siêu vi ở người có thể gây ra ung thư cổ tử cung) cũng có ý nghĩa tầm soát quan trọng.

Ths.BS. Trịnh Thị Diệu Thường khuyến cáo, để có hiệu quả tối đa cho mỗi lần khám định kỳ, cần chuẩn bị trước các thông tin để cung cấp cho bác sĩ khi đi khám bệnh như: tiền sử bệnh của bản thân (những lý do bị bệnh hay bị mổ, đã từng phải cấp cứu, những năm tháng đã có sự cố sức khoẻ, nếu có thể bản sao các xét nghiệm đã làm, biên bản phẫu thuật...); tiền sử bệnh của gia đình (bệnh tim, ung thư, cao huyết áp, đái tháo đường... mà người thân trong gia đình đã mắc, độ tuổi mắc bệnh và nếu có thể cả lý do tử vong); những thuốc thường dùng; những phản ứng của thuốc; đã tiêm chủng những bệnh gì… Có một vấn đề cần đặc biệt lưu tâm là nếu có bất kỳ một triệu chứng khó chịu nào đó, cần phải đi khám ở cơ sở y tế ngay không được chờ đến dịp khám sức khỏe định kỳ.

NGUYỄN HUYỀN

Phòng tránh chứng chuột rút

Thỉnh thoảng tôi lại bị chuột rút, nhất là ban đêm. Mong bác sĩ hướng dẫn cách phòng tránh bị chuột rút.

Phạm Hoàng Yến (Ninh Bình)

Chuột rút hay còn gọi là vọp bẻ là tình trạng co thắt cơ đột ngột, gây đau dữ dội ở một bắp thịt, làm cho sự cử động khó khăn hoặc không tiếp tục cử động được nữa. Chuột rút thường xảy ra ở bắp thịt của cẳng chân, bắp đùi và hông, bàn tay, bàn chân và cơ bụng. Thời gian cơ co rút từ vài giây tới vài phút, nhưng hay tái diễn. Đến nay, khoa học vẫn chưa biết rõ nguyên nhân gây ra chứng chuột rút. Người ta cho rằng có thể do vận động quá mức, do tĩnh tại lâu như khi ngủ ban đêm, khi ngồi lâu không thay đổi tư thế.

Bệnh thường xảy ra vào ban đêm khi đang ngủ, hoặc sau khi vận động, sử dụng cơ bắp trong thời gian dài liên tục. Khi bị chuột rút, bạn cần xoa bóp bắp thịt bị co rút nhẹ nhàng. Nếu chuột rút ở bắp chuối, bạn nên nhè nhẹ vươn duỗi cơ theo chiều đối ngược. Chuột rút bắp đùi, bạn nhờ người khác kéo thẳng chân ra, một tay nâng cao gót chân, tay kia đồng thời ấn đầu gối xuống. Phòng bệnh chuột rút bằng cách: chế độ ăn giàu canxi, uống nước đầy đủ trước, trong và sau khi vận động. Tập vươn duỗi chân vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu hay bị chuột rút có thể liên quan tới việc dùng thuốc lợi tiểu thì bạn nên khám, xét nghiệm máu, bác sĩ sẽ chỉ định dùng canxi dạng dược phẩm nếu cần.

BS. Nguyễn Minh Hiền

Làm gì khi nghi ngờ bị viêm dạ dày cấp

Viêm dạ dày cấp là phản ứng viêm chỉ hạn chế ở niêm mạc dạ dày. Đây là bệnh thường gặp, khởi phát và diễn biến nhanh chóng do tác dụng của tác nhân độc hại hoặc nhiễm khuẩn ở niêm mạc dạ dày. Viêm dạ dày cấp thường xuất hiện nhanh, mất đi nhanh và không để lại di chứng. Nhưng nếu không được phát hiện sớm và biết cách điều trị đúng sẽ dẫn đến viêm dạ dày mạn tính, viêm loét dạ dày.

Viêm dạ dày có thể do yếu tố nội sinh hoặc ngoại sinh. Yếu tố ngoại sinh thường gặp là virut, vi khuẩn và độc tố của chúng, thức ăn quá nóng, lạnh hoặc bị nhiễm khuẩn, nhiễm độc do vi khuẩn: tụ cầu, E.coli..., các chất ăn mòn, các kích thích nhiệt, dị vật hay một số loại thuốc như aspirin ... Yếu tố nội sinh thường do đường máu trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp (viêm phổi, viêm ruột thừa, thương hàn...), bỏng, nhiễm phóng xạ, chấn thương sọ não..., dị ứng thức ăn (tôm, cua, ...).

Khi bị viêm dạ dày cấp, người bệnh có biểu hiện đau vùng thượng vị dữ dội, cồn cào, nóng rát, có khi âm ỉ, ậm ạch khó tiêu, ợ hơi, ợ chua, buồn nôn, hoặc nôn nhiều, ăn xong nôn ngay, nôn hết thức ăn thì nôn ra dịch chua, có khi nôn cả ra máu, lưỡi bẩn, miệng hôi, sốt 39 - 40oC, thường kèm theo viêm ruột, tiêu chảy.

Viêm niêm mạc dạ dày.

Trong bệnh viêm dạ dày cấp tính, quá trình viêm diễn ra từ vài giờ đến vài ngày, hồi phục nhanh và hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu người bệnh không hạn chế những thực phẩm gây tổn thương niêm mạc dạ dày như rượu, bia, ớt, tỏi, ..., những món ăn gây khó tiêu như chất béo, thức ăn chiên xào, gân sụn, hay những thực phẩm gây đầy hơi như nước giải khát có gas, ... thì viêm dạ dày cấp rất dễ tái phát và nếu bị nhiều đợt có thể chuyển thành viêm mạn tính do niêm mạc bị phá huỷ liên tiếp và có vai trò của cơ chế miễn dịch.

Khi nghi ngờ bị viêm dạ dày cấp, người bệnh cần:

- Ngưng ngay việc sử dụng các chất có hại cho dạ dày.

- Nên uống lòng trắng trứng hoặc sữa bò loãng.

- Ăn thức ăn loãng, mềm, dễ tiêu và đủ dinh dưỡng để bảo vệ niêm mạc dạ dày. Nên ăn chậm, nhai kỹ, giữ khoảng cách đều đặn, hợp lý giữa các bữa ăn. Lúc đầu, nên ăn những thức ăn loãng; sau đó, người bệnh có thể dần dần ăn những thức ăn đặc hơn.

Nếu không đỡ, bệnh nhân không nên tự ý dùng thuốc mà nên đến khám tại các cơ sở y tế. Tại đây bệnh nhân sẽ được làm các xét nghiệm để chẩn đoán:

- Nội soi dạ dày: Thấy niêm mạc dạ dày phù nề xung huyết đỏ rực, có những đám nhầy dày hoặc mỏng, Các nếp niêm mạc phù nề, niêm mạc kém bền vững, dễ xuất huyết, vết trợt.

- Dịch vị: tăng tiết dịch, tăng toan, trong dịch có BC, tế bào mủ.

- X quang: Nếp niêm mạc thô, ngoằn nghèo, bờ cong lớn nham nhở, túi hơi rộng.

- Xét nghiệm máu: Bạch cầu tăng, công thức bạch cầu chuyển trái, máu lắng tăng.

Dựa trên sự thăm khám và các kết quả xét nghiệm, bác sỹ sẽ đưa ra chẩn đoán xác định cũng như mức độ bệnh, từ đó sẽ có hướng điều trị thích hợp cho bệnh nhân.

Thạc sĩ - Bác sĩ Vũ Mạnh Cường

Những nguy cơ ngộ độc hải sản

Hải sản là món ăn nhiều dinh dưỡng và cũng là món ưa thích của nhiều người. Hải sản thường được tiêu thụ mạnh vào mùa hè, mùa du lịch nhưng hiện nay, điều kiện kinh tế phát triển hơn, trong ngày Tết, nhiều gia đình cũng có thói quen tích trữ hải sản trong tủ lạnh để tránh những món ăn chứa nhiều thịt mỡ gây ngán. Vậy nên tích trữ, ăn hải sản thế nào cho an toàn?

Tránh các loại hải sản có thể chứa chất độc

Có loại hải sản luôn luôn có chất độc, có loại thỉnh thoảng mới gây độc. Bằng mắt thường và cảm giác khi ăn uống, chúng ta không thể phát hiện có chất độc hay không, vì vậy với các loại hải sản này bạn cần biết và tránh ăn. Các loại độc tố này thường không bị phá hủy bởi nhiệt nóng khi đun nấu và các biện pháp chế biến thông thường. Khi đi du lịch, nên hỏi kỹ thông tin từ những người dân địa phương.

Những nguy cơ ngộ độc hải sản 1

Hạn chế ăn hải sản tươi sống để phòng tránh ngộ độc. Ảnh: TL

Không ăn hải sản đã chế biến từ lâu

Hải sản nói chung là các loại thực phẩm nguồn gốc từ động vật, rất giàu chất đạm (protein). Khi bị chết hoặc bảo quản ở nhiệt độ thông thường, chúng rất nhanh chóng bị các vi khuẩn xâm nhập và phát triển nên dễ gây bệnh. Với một số loại hải sản như cá ngừ, cá thu, vi khuẩn thậm chí biến thịt của cá thành chất độc (chuyển một loại axit amin là histidin trong thịt cá thành chất độc histamine) gây ngộ độc (đỏ da, nóng bừng, trống ngực, đau đầu, khó thở…).

Các hải sản đông lạnh có thể an toàn về mặt vi khuẩn nếu được bảo quản đông lạnh liên tục từ khi còn sống tới khi bạn mua và chưa quá hạn sử dụng.

Lưu ý thông tin về nhiễm độc nước biển, ô nhiễm môi trường vùng biển

Bên cạnh các vấn đề ô nhiễm môi trường do hóa chất bạn có thể biết rõ, có một hiện tượng tự nhiên đặc biệt xảy ra chỉ riêng với biển có thể dẫn tới ngộ độc là hiện tượng “thủy triều đỏ”. Đây là hiện tượng nước biển đổi màu bất thường như hồng, tía, xanh lục, nâu hay đỏ do một số loại tảo biển phát triển ồ ạt với số lượng lớn bất thường. Một số loại tảo có chứa chất độc. Các hải sản lúc bình thường có thể không có độc nhưng khi có thủy triều đỏ có thể mang tảo độc và gây ngộ độc. Không nên ăn các hải sản được đánh bắt ở vùng có “thủy triều đỏ”, đặc biệt các loài động vật thân mềm có hai mảnh vỏ (như trai, sò, ngao,…).

Không ăn gỏi hải sản

Các loại vi khuẩn rất dễ phát triển trong hải sản. Vì vậy, không nên ăn hải sản tái hoặc tươi sống, hãy từ bỏ thói quen ăn gỏi hải sản và các loại thức ăn sống khác để phòng tránh ngộ độc thực phẩm, bệnh tiêu chảy cấp. Cần nấu chín hải sản trước khi ăn.

Phát hiện sớm các dấu hiệu ngộ độc

Có nhiều loại hải sản với nhiều loại nguyên nhân gây độc khác nhau nên biểu hiện ngộ độc cũng rất đa dạng: từ đau bụng, nôn, tiêu chảy, sốt đến các biểu hiện thần kinh như tê môi lưỡi, co giật, liệt, mờ mắt, lẫn lộn, hôn mê, hay tim mạch như loạn nhịp tim, tụt huyết áp, hay hô hấp như khó thở, thậm chí tử vong. Khi ăn hải sản, nếu thấy có một trong số các biểu hiện trên cần nhanh chóng chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời.

(Theo tài liệu của Trung tâm Chống độc - Bệnh viện Bạch Mai)

Tác hại của thịt tồn dư chất kích thích với sức khỏe

Nội tiết tố sinh dục progesterol, testosteron, estradiol -17β đã từng được dùng để bổ sung vào thức ăn chăn nuôi với mục đích tăng trọng và nâng cao hiệu quả của thức ăn. Tuy nhiên do nhận thấy tác hại rõ rệt của progesterol, testosteron có liên quan đến sức khỏe cộng đồng như hiện tượng đồng tính luyến ái tăng, giảm mật độ tinh trùng, tinh hoàn lệch, ẩn ở trẻ em trai và tuổi dậy thì ở trẻ em gái sớm hơn; estradiol -17β có nguy cơ gây ung thư nên sau năm 1999 nhiều nước đã cấm dùng các hormon này bổ sung vào thức ăn chăn nuôi với mục đích tăng trọng.

Dexamethasone thuộc nhóm kháng viêm, có tác dụng giữ muối, giữ nước, tăng quá trình tích tụ mỡ làm cho con vật lớn nhanh. Loại thuốc này tồn dư trong thịt và các sản phẩm gia súc có thể gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người tiêu dùng như cường thượng thận, loãng xương, đái tháo đường, suy giảm miễn dịch.

Clenbuterol gần đây đã được coi như là chất siêu tăng trọng nhất là lượng thịt nạc, dùng chủ yếu trước khi gia súc xuất chuồng khoảng 21 ngày. Tác hại của clenbuterol rất khó nhận thấy ngay. Dùng thực phẩm tồn dư chất này sau một thời gian mới có những biểu hiện rối loạn nhịp tim, tổn thương tế bào cơ tim, run cơ, tăng huyết áp và có thể gây đột biến tế bào, tạo điều kiện phát triển các khối u ác tính.

BS. Nguyễn Ngọc Minh

Tương kỵ thực phẩm

Có nhiều loại thực phẩm khí chế biến cùng nhau đã trở thành tương kỵ, ảnh hưởng không ít đến sức khỏe.

Gan heo trộn chung giá đậu: trong gan heo hay gan động vật nói chung, theo các nhà khoa học thì có hàm lượng đồng, sắt và một số nguyên tố kim loại khác khá cao, khi kết hợp với giá đậu, trong giá đậu có chứa nhiều vitamin C. Nếu xào giá cùng với gan heo hay gan động vật khác, các ion kim loại trong gan sẽ bị vitamin C trong giá đậu oxy hóa làm mất hết công hiệu, từ đó giá đậu sẽ biến thành chất bã và không còn giá trị dinh dưỡng nữa.

Gan heo và giá đậu được cho là tương kỵ

Mật ong với sữa đậu nành hay đậu hũ non: trong mật ong chứa acid formic khi gặp đậu nành có nhiều protein sẽ gây ra hiện tượng kết tủa, dẫn đến tình trạng khó tiêu, đầy bụng rất khó chịu.

Thịt gà trộn với rau kinh giới: khi trộn món gỏi gà hay chế biến món gà luộc ăn với rau kinh giới, người bệnh dễ bị chứng đầy bụng, khó tiêu, nếu ăn thường xuyên có thể khiến bị táo bón kéo dài.

Ăn thịt dê hay thịt chó với uống nước trà (chè): trong thịt dê và thịt chó có rất nhiều protein, nên sau khi ăn mà uống nước trà ngay sẽ tạo ra phản ứng giữa tanin trong trà với protein và salicilate trong thịt dê – chó tạo thành chất tanalbit. Chất này làm se niêm mạc ruột, giảm nhu động ruột, khiến ruột tích tụ nhiều chất có hại, dẫn đến táo bón hoặc có thể gây nguy cơ ung thư.

Dùng hải sản với một số loại hoa quả: các loại hải sản như tôm, cua rất giàu protein và canxi, trong khi đó các loại hoa quả như nho, cam, quýt, bưởi lại rất nhiều acid tanic, vitamin C. Nếu dùng chung hai loại thực phẩm trên cùng lúc, chất acid từ trái cây sẽ nhanh chóng phá hủy các thành phần dinh dưỡng trong hải sản; trở thành những độc chất có thể gây kích thích nhu động ruột, dẫn đến triệu chứng khó tiêu, đầy bụng, nặng hơn là nôn ói…

Ngoài ra, các loại động vật có vỏ, sống dưới nước như tôm, cua, ốc, hến… có chứa rất nhiều chất asen hóa trị 5. Chất này không gây độc cho cơ thể, nhưng nếu ta ăn các loại thực phẩm này mà uống vitamin C hoặc ăn các loại thực phẩm chứa nhiều vitamin C như cam, chanh, cà chua, nho... sẽ làm cho asen hóa trị 5 chuyển thành asen hóa trị 3, tức là chất thạch tín, một độc chất có thể gây chết người. Cho nên, khi ăn các thức ăn hải sản nói trên khi cần dùng các trái cây rau quả thì cần phải ít nhất sau 4 giờ.

Hành với đậu hũ: trong hành có chứa chất acid oxalic, và trong đậu hũ có nhiều canxi. Nếu chúng ta ăn cùng một lúc thì các chất acid oxalic sẽ dễ dàng kết hợp với canxi để tạo thành oxalat calci, là chất lắng đọng màu trắng mà cơ thể không sao hấp thụ được, dễ tạo nên bệnh sỏi thận.

Sữa với đường ở nhiệt độ cao: chất lysine trong sữa bò kết hợp với đường sẽ sinh ra lysine gốc glucose, chất này gây hại cho cơ thể. Tuy nhiên, nếu đun sôi sữa trước, để nguội, rồi mới cho đường vào thì phản ứng hóa học trên sẽ không xảy ra.

Khoai lang với quả hồng: trong quả hồng có chứa chất tanin và pectin; còn trong khoai lang thì chứa nhiều tinh bột và đường glucose. Nếu ta ăn nhiều khoai lang, sẽ kích thích dạ dày tiết nhiều acid clohydric; sau đó ta ăn quả hồng, khiến cho acid clohydric từ dạ dày tiết ra sẽ kết hợp với chất tanin và pectin trong quả hồng, sẽ hình thành sỏi lắng đọng lại ở dạ dày. Nếu nặng có thể gây loét và chảy máu dạ dày. Người bị đau dạ dày phải chú ý để tránh ăn cùng lúc những món này.

Dưa leo với các món chứa nhiều vitamin C: trong dưa leo có chứa một loại men làm phân giải vitamin C, khi ta ăn dưa leo với các món có vị chua, chất men này sẽ làm mất lượng vitamin C nạp vào cơ thể, kể cả cà rốt và củ cải cũng vậy. Nguyên do là trong cà rốt có chứa một loại enzyme có tác dụng phân giải vitamin C, củ cải chứa hàm lượng vitamin C rất cao, do vậy khi có mặt của cà rốt thì vitamin C cao trong củ cải sẽ bị phân hủy đi. Khi dùng các thực phẩm trên chung và kéo dài thì cần chú ý bổ sung vitamin C cần thiết cho cơ thể.

Trứng gà với óc heo và sữa đậu nành: trong sữa đậu nành chứa thành phần trypsine có tính ức chế các protein trong trứng gà, gây chứng khó tiêu, đầy bụng. Dùng trứng chung với óc heo sẽ làm tăng cholesterol trong máu.

BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG

Bệnh hay gặp ở phụ nữ trung niên

Phụ nữ khi bước vào tuổi trung niên thường gặp những bệnh bỗng từ đâu đến khiến họ bối rối và khó khăn khi xử trí. Ðó là những cơn bốc hỏa đột ngột, chân tay nhức mỏi thường xuyên, đau đầu triền miên, hay bị hồi hộp, khó thở...

Loãng xương

Loãng xương là căn bệnh không gây chết người, nhưng là mối đe dọa đến chất lượng cuộc sống của hàng triệu phụ nữ trên thế giới. Tuổi mãn kinh, phụ nữ rất dễ bị loãng xương, đặc biệt những người nhỏ bé, người tiền căn gia đình bị loãng xương, mãn kinh sớm hay bị cắt buồng trứng. Khi bị loãng xương rất dễ dẫn đến nguy cơ gãy xương hông, xương đùi, cổ xương đùi, xương cẳng chân, bị đau lưng và còng lưng do cột sống bị sụp. Loãng xương còn làm mất khả năng vận động tự nhiên của cơ thể, từ đó gây khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. Nguyên nhân gây loãng xương thường do chế độ ăn uống thiếu dưỡng chất, đặc biệt thiếu canxi và vitamin D. Ngoài ra, phụ nữ hút thuốc lá, uống rượu, sử dụng thuốc có chứa chất steroid... cũng dễ bị loãng xương.

Phòng ngừa: Cần có chế độ ăn uống tăng canxi ngay từ tuổi vị thành niên, vận động và tập thể dục vừa sức, đồng thời tránh các yếu tố nguy cơ như hút thuốc, uống rượu, dùng thuốc corticoid. Nên bổ sung 1.000mg canxi và 200 - 4.000 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D để giúp xương phát triển tốt, nhất là từ nguồn thực phẩm, thức ăn hàng ngày. Nên dùng sữa có hàm lượng chất béo thấp (3 cốc/ngày). Việc khám sức khỏe định kỳ là hết sức cần thiết với phụ nữ trung niên. Để sống khỏe mạnh ở tuổi mãn kinh, cần giữ cân nặng bình thường, ổn định huyết áp, giảm mỡ máu, vận động nhiều, ăn ít chất béo, tăng cường rau xanh, trái cây, chất xơ, tập thể dục đều đặn.

 Phụ nữ trung niên cần tập thể dục đều đặn và ăn nhiều rau, quả để phòng tránh bệnh tật.

Phụ nữ trung niên cần tập thể dục đều đặn và ăn nhiều rau, quả để phòng tránh bệnh tật.

Hội chứng tiền mãn kinh

Người phụ nữ trong thời kỳ phát triển, cơ thể liên tục tiết ra estrogen - nội tiết tố nữ - để tạo ra các đặc tính của phái nữ. Sang tuổi mãn kinh, buồng trứng trong cơ thể phụ nữ không phát triển, nội tiết tố không tiết ra nữa, bắt đầu thiếu hụt estrogen. Vùng khung chậu bị ảnh hưởng, rất dễ sinh ra các bệnh viêm âm đạo, ngứa âm hộ, rong kinh, âm đạo khô, giao hợp khó khăn..., có thể dẫn đến bệnh sa sinh dục, sa bàng quang, són tiểu. Thiếu estrogen cũng ảnh hưởng tới tâm thần kinh, tuyến nội tiết, hệ vận mạch, gây ra nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ, bị bốc hỏa từng cơn, chóng mặt, hồi hộp không lý do, đau nhiều nơi trên cơ thể, dễ cáu gắt, sinh ra những lo âu, dễ buồn tủi... Phòng ngừa: Có thể uống estrogen thay thế nội tiết buồng trứng khi mãn kinh để điều hòa cơ thể, song phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Ung thư vú

Đây là nỗi ám ảnh của phụ nữ tuổi trung niên - căn bệnh âm thầm mà rất nguy hiểm. Có tới 18% phụ nữ tuổi 40 chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, tăng 77% ở tuổi trên 50. Ung thư vú là căn bệnh gây tử vong khá cao cho phụ nữ, đặc biệt là những phụ nữ có chế độ ăn uống nhiều chất béo. Những yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ trung niên: gia đình có mẹ hoặc chị em ruột bị ung thư vú, nguy cơ tăng gấp 3 - 5 lần; béo phì: nguy cơ gấp 3 lần; không cho con bú sữa mẹ hoặc không sinh con, hoặc có con đầu lòng quá muộn; dậy thì sớm và mãn kinh muộn.

Để phòng bệnh này, ngoài thực hiện lối sống lành mạnh; hạn chế thực phẩm chế biến quá kỹ, thực phẩm chứa nhiều đường, chất béo; không nên uống rượu, đồ uống kích thích, không hút thuốc lá; tăng cường luyện tập... chị em nên tự khám mỗi tháng xem có gì bất thường ở ngực, nhũ hoa... đồng thời cần được khám định kỳ ở các cơ sở y tế chuyên khoa mỗi năm một lần. Khi nhận thấy các triệu chứng như: sự thay đổi kích thước và hình dạng của vú, xuất hiện những khối u hay sưng tấy ở nách, chảy máu ở núm vú hay đau ngực... thì có thể là dấu hiệu ung thư vú, hãy nhanh chóng đến các cơ sở khám bệnh chuyên khoa để kiểm tra và điều trị khi khối u còn nhỏ.

Bệnh tim mạch

Ở độ tuổi sinh nở, hệ thống tim mạch của phụ nữ được bảo vệ bởi các hormon sinh dục nữ (estrogen), các hormon sinh dục này có tác dụng giảm hàm lượng cholesterol của cơ thể, bảo vệ thành mạch và tim. Khi đến tuổi tiền mãn kinh, lượng hormon sinh dục bị giảm đáng kể và bắt đầu giai đoạn bùng nổ các bệnh tim mạch (tăng huyết áp, bệnh mạch vành...) ở phái nữ với diễn biến rất phức tạp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu người ta thấy rằng, liệu pháp hormon thay thế không thể giúp được phụ nữ ở tuổi mãn kinh phòng ngừa được sự phát triển của xơ vữa động mạch.

Ngoài sự thay đổi nội tiết, nguyên nhân khiến phụ nữ ở độ tuổi này mắc bệnh tim mạch nhiều hơn so với các độ tuổi khác và nhiều hơn nam giới là do tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường týp 2 cao hơn, hay bị các rối loạn tuyến giáp hơn, có nhiều vấn đề (áp lực) trong gia đình và công việc hơn so với nam. Hệ thống tim mạch ở phụ nữ cũng dễ bị tổn thương hơn khi có tác động của các tác nhân độc hại, ví dụ thuốc lá, rượu bia... Bệnh tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành ở phụ nữ diễn biến phức tạp hơn, hiệu quả chữa trị kém hơn (các phương pháp can thiệp mạch vành hiện đại như thông mạch vành bằng cách đặt stent, nong mạch và nối mạch thông đạt hiệu quả thấp ở phụ nữ), nên vấn đề phòng bệnh, phát hiện và chữa trị kịp thời các bệnh này là quan trọng hàng đầu.

Những biện pháp phòng ngừa bệnh tim mạch ở phụ nữ là giảm cân nếu bị thừa cân, luôn duy trì cân nặng ở mức hợp lý; không nên uống rượu bia, hút thuốc lá; tăng cường rèn luyện thể dục thể thao; chế độ ăn uống phải hợp lý; không ăn quá 5 - 6g muối/ngày; tăng cường ăn các thức ăn có chứa nhiều vitamin E, C, A, B6, B12, acid folic và axít béo không no Omega-3 để bảo vệ thành mạch máu trước nguy cơ hình thành các mảng xơ vữa; hạn chế ăn thịt mỡ, da động vật và các đồ ăn có chứa nhiều cholesterol như tim, gan động vật, bơ, kem, sôcôla; tăng số ngày ăn cá, đậu trong tuần, dùng dầu thực vật để chế biến thức ăn...; luôn kiểm soát hàm lượng cholesterol, glucoza trong máu và các chỉ số huyết áp ở mức độ cho phép; giảm căng thẳng thần kinh...

ThS. Hà Hùng Thủy

Tránh sai lầm khi chăm sóc trẻ sau tiêm chủng

TS. Nguyễn Văn Cường, chuyên gia Dự án Tiêm chủng mở rộng quốc gia (TCMR) lưu ý các bậc cha mẹ về việc không nên làm sau tiêm chủng, đó là sử dụng thuốc không theo chỉ định của cán bộ y tế, bao gồm sử dụng thuốc hạ sốt; chườm, đắp, bôi thuốc hoặc bất cứ thứ gì lên vị trí tiêm, kể cả thuốc theo kinh nghiệm dân gian. Chuyên gia cũng lưu ý thêm, các bà mẹ cần đảm bảo chế độ dinh dưỡng hợp lý cho trẻ. Không có chống chỉ định tiêm vắc-xin với các trẻ béo phì, các cháu suy dinh dưỡng. Cha mẹ cũng cần phải chủ động cho trẻ đi tiêm chủng phòng bệnh đúng lịch.

Theo TS. Nguyễn Văn Cường, phản ứng thông thường sau khi tiêm vắc-xin là đau tại chỗ tiêm trong vòng 24 giờ, sốt nhẹ (dưới 38,5oC), một số vắc-xin (như sởi - Rubella có thể có phát ban 7 - 10 ngày sau tiêm chủng, chiếm khoảng 2% các trường hợp).

Hiếm gặp các phản ứng nặng: co giật, tím tái, khó thở sau tiêm vắc-xin. Tuy nhiên, khi thấy có các biểu hiện bất thường khác nào về sức khỏe sau tiêm chủng hoặc khi phản ứng thông thường như: sốt, đau, hoặc sưng tấy tại chỗ tiêm, quấy khóc...) kéo dài trên một ngày hoặc gia đình không yên tâm về sức khỏe của trẻ thì cần đưa ngay trẻ tới bệnh viện hoặc các cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám và xử trí.

Bà mẹ cần lưu ý những hướng dẫn bảo đảm an toàn cho trẻ sau tiêm chủng.

“Nguyên tắc chung” cho tiêm chủng an toàn

Tiêm chủng là cách tốt nhất để phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho trẻ em. Trẻ cần được tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch để phòng tránh những bệnh tật nguy hiểm như bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan b, bại liệt, sởi và viêm phổi/viêm màng não mủ do vi khuẩn Hib... Các bậc cha mẹ cần giữ sổ và phiếu tiêm chủng đầy đủ để theo dõi lịch tiêm chủng của con mình. Các vắc-xin sử dụng trong chương trình tiêm chủng là an toàn, 100% các lô sản phẩm được kiểm định. Để chăm sóc sức khỏe trẻ tốt hơn khi đi tiêm chủng, các bà mẹ và người chăm trẻ cần lưu ý:

- Không để trẻ bị đói trước khi đi tiêm chủng. Cho trẻ ăn uống bình thường sau tiêm.

- Cần chủ động thông báo với cán bộ y tế về tình trạng sức khỏe của con mình như: đang ốm, sốt, sinh non, tiền sử dị ứng, có phản ứng mạnh với lần tiêm chủng trước và đề nghị được cán bộ y tế kiểm tra sức khỏe của con mình trước khi tiêm chủng. Hỏi cán bộ y tế loại vắc-xin trẻ được tiêm.

- Chú ý và thường xuyên theo dõi trẻ sau tiêm chủng: 30 phút tại điểm tiêm và ít nhất 24 giờ sau tiêm.

- Khi trẻ sốt, các bà mẹ có thể cho trẻ dùng thuốc hạ sốt nhưng phải có chỉ định và hướng dẫn của cán bộ y tế.

- Nếu cha mẹ không yên tâm về tình trạng sức khỏe của con mình sau khi tiêm cần liên lạc với cán bộ y tế để được tư vấn cách chăm sóc trẻ.

- Nếu trẻ có các dấu hiệu bất thường như sốt cao, quấy khóc kéo dài, co giật, bỏ bú, khó thở, tím tái... các bà mẹ cần đưa ngay trẻ tới cơ sở y tế. Những phản ứng nặng sau tiêm chủng thường hiếm gặp và sẽ qua khỏi nếu được phát hiện và xử trí kịp thời.

Vì sự an toàn của trẻ, các bà mẹ cần theo dõi trẻ sau tiêm chủng. Trẻ cần được theo dõi 30 phút tại điểm tiêm chủng và tiếp tục theo dõi tại nhà ít nhất 24 giờ sau tiêm chủng.

Dự án TCMR

Mẹo chọn cua đồng ngon

Nhà tôi có người già và trẻ nhỏ nên thường xuyên ăn cua đồng để bổ sung canxi. Đi chợ nhiều, tôi đã rút ra được kinh nghiệm chọn cua đồng ngon. Dưới đây là vài mẹo chọn cua đồng, tôi xin chia sẻ cùng các bạn:

Cua khỏe sẽ tươi ngon, vì thế tôi luôn chọn những con mình mập, di chuyển nhanh, càng khỏe, sẵn sàng phản ứng khi bị gắp. Cua phải còn đủ càng. Ngoài ra, cua khỏe cũng thường sủi bọt khí liên tục. Mua phải cua yếu hay cua chết, món canh thường có mùi khai.

Muốn phân biệt cua đực, cua cái, tôi nhìn vào yếm cua. Cua đực có yếm nhọn, cua cái có yếm to. Cua đực sẽ cho nhiều thịt còn cua cái sẽ cho nhiều gạch.

Những con cua ngon là những con cua có mai màu sáng, cứng và trơn.

Lật ngửa cua và nhấn tay vào yếm cua, có thể biết cua có chắc thịt hay không. Nếu yếm không lún thì đó là cua chắc, nhiều thịt. Nếu yếm lún là cua ốp, ít thịt, ăn không ngon và dễ có mùi khai.

Nhà tôi ít ăn cua vào giữa tháng âm lịch, lúc này cua lột vỏ nên bị gầy, ốp thịt. Đầu và cuối tháng âm là thời điểm cua ngon, béo và chắc ngọt nhất.

Thúy Ngân

(Theo VNExpress)

Những biến chứng gây nguy hiểm ở bệnh thủy đậu

Thủy đậu là một trong những bệnh có khả năng lây lan thành dịch cao nhất. Nhất là khi đối tượng mắc bệnh chủ yếu lại là trẻ em. Đối với nhữn...